Chương Ba 

NĂNG THỂ CON NGƯỜI 

 

Về phương diện cơ cấu nơi thực thể của con người, nếu hữu thể của con người được ví và được coi như thân ḿnh trong cơ thể của con người, và hiện thể như bộ mặt, th́ năng thể sẽ như chân tay.

 

Hiện thể  là phần tâm linh nội tại cua hữu thể con người; năng thể  là phần sống động ngoại tại của hữu thể con người.

 

Hiện thể là ư thức hiện hữu của hữu thể nơi con người; năng thể là tinh thần làm người của hữu thể nơi con người.

 

Hiện thể cư trú và sinh hoạt nơi linh hồn của con người; năng thể thể hiện qua thân xác của hữu thể con người.

 

Về phương diện liên hệ trong cơ cấu tổ chức nơi thực thể của con người, nếu hữu thể là cái con người có, hiện thể là

cái con người là, năng thể  là cái con nguời làm. Hay nói cách khác, có con người nơi hữu thể của họ; là con người tại hiện thể của họ; và làm con người ở  năng thể của họ.

 

Không thể là con người, nếu không có đủ linh hồn và thân xác là hai yếu tố h́nh thành hữu thể của con người. 

 

Không phải là con người, nếu không có ư thức, tức hiện thể, về sự hiện hữu của ḿnh. Tuy nhiên, mặc dầu có là con người

theo đúng như hữu thể và hiện thể của ḿnh đi nữa, con người cũng chưa thực sự là người, nếu không biết làm người đúng như ḿnh đă là người.

 

Do đó,

 

Làm người, hay năng thể của con người cũng vậy, chẳng qua chỉ là thể hiện hữu thể là người cũng gọi là hiện thể đại quan của ḿnh, và thể hiện ư thức hiện hữu cũng gọi là hiện thể chủ quan của ḿnh, thế thôi. Trước hết,

 

NĂNG THỂ LÀ THỂ HIỆN HIỆN THỂ ĐẠI QUAN CỦA CON NGƯỜI.

 

Hiện thể đại quan chính là nhân tính của con người (xem lại chương hai về phân loại Hiện Thể, trang 26) làm cho con người là con người, chứ không phải là con vật hay là thần thiêng.

 

Nếu hiện thể, nói chung, được so sánh như là đầu năo, là bộ mặt trong cơ thể của con người, th́ năng thể, với tư cách là một hiện thể đại quan, chính là những đường nét tạo nên cái đầu, cái mặt này của con người. Những đường nét tạo nên cái đầu, cái mặt này của con người, như h́nh thức của con mắt, sống mũi, vành tai, môi miệng, đầu tóc v.v., chẳng những làm cho con người là con người, mà c̣n là một con người cá thể, khác với tất cả mọi người cũng là người như ḿnh trên đời, dù con số của toàn thể con người như họ đó có nhiều như sao trời, như cát biển, từ tạo thiên lập điạ cho tới tận thế.

 

Như thế,

 

Năng thể của con người, trên thực tế, c̣n là thể hiện hiện thể khách quan của con người, một trong những cách thức là người theo bản tính thứ hai, tức chân tướng của con người (xem lại chương hai về phân loại Hiện Thể, ở trang 27).

 

Qua năng thể thể hiện cả hiện thể đại quan lẫn hiện thể khách quan này của con người, những đường nét bẩm sinh và cá tính của con người được bộc lộ, chẳng hạn như những ham thích, những cách cảm nhận, suy tư, phát biểu, nhận định, phản ứng v.v.

 

Tóm lại,

 

Năng thể có thể được gọi là tư cách làm người của con người.

 

Sau nữa,

 

NĂNG THỂ LÀ THỂ HIỆN HIỆN THỂ CHỦ QUAN CỦA CON NGƯỜI.

 

Hiện thể chủ quan là Bản Ngă nơi con người, là ư nghĩ về chính bản thân ḿnh nơi con người, là sự nhận biết ḿnh là ai đang

sống trên đời nơi con người.

 

So sánh với năng thể đóng vai tṛ là một hiện thể đại quan và khách quan, năng thể đóng vai tṛ là một hiện thể chủ quan này sẽ không phải là h́nh thức đặc thù của một con mắt nơi một cá thể, mà là cách thức nh́n riêng biệt của cá thể có con mắt đó. Nó cũng không phải là h́nh thức đặc biệt của môi miệng nơi một cá thể nào đó, mà là cách thức nói cười của cá thể có môi miệng đó. Nó cũng không phải là h́nh thức khác biệt của đầu tóc nơi một cá thể nào đó, mà là cách thức

để tóc và cử động của đầu nơi cá thể có đầu tóc đó v.v. Đúng hơn, nó chính là những điệu bộ bên ngoài tỏ lộ thái độ bên trong của con người khi tiếp xúc với môi trường sống của họ. 

 

Trên thực tế, năng thể làm người thể hiện hiện thể chủ quan của con người này chính là những hành động bộc lộ tâm linh của con người, phản ảnh bản ngă của con người. Chẳng hạn, một con người vẫn tự nghĩ và tự cho rằng ḿnh tài hoa nhan sắc, th́, năng thể, tức những hành động hay thái độ của họ, có thể là việc đi dự thi hoa hậu mỗi khi có dịp, là hănh diện v́ được nhiều chàng theo đuổi, là uất ức khi bị chàng đá đít cho de, là chê bai và b́nh phẩm những nét đẹp của kẻ khác được người

ta ngưỡng mộ khen lao, là khinh khi những người kém duyên ít nét hơn ḿnh v.v.

 

Tất cả những ǵ mà năng thể làm người thể hiện chủ quan nơi con người như thế không phải là thái độ của họ hay sao? Với

thái độ làm người này, cộng thêm với tư cách làm người thể hiện hiện thể đại quan và khách quan, sẽ trở thành những ấn tượng, những thành kiến, yê<161>u tố tạo thành hiện thể tương quan (xem lại chương hai về phân loại Hiện Thể, trang 26) về mỗi cá thể nơi tâm trí của con người liên hệ.

 

Sau hết,

 

NĂNG THỂ LÀM NGƯỜI C̉N PHẢI THỂ HIỆN HIỆN THỂ THƯỢNG QUAN NỮA TH̀ MỖI NGƯỜI MỚI

THỰC SỰ LÀ CON NGƯỜI CHÂN THỰC VÀ THIỆN MỸ.

 

Bởi v́,

 

Hiện thể thượng quan, dĩ nhiên, không phải là và cũng không giống như các hiện thể đại quan, tương quan, chủ quan hay khách quan. Nó là chính ư định của Thượng Đế, của Ông Trời, của Thiên Chúa, của Đấng tạo hoá vô cùng khôn ngoan

và thiện hảo muốn mỗi người cũng như mọi người phải trở nên, phải đạt được, th́ con người của họ mới là và được là một con người hoàn bị (theo chiều ngang) và một con người hoàn toàn (theo chiều dọc), một con người đáng gọi là thánh hiền, đáng làm mô phạm cho mọi người ở trên đời, cả khi c̣n sống cũng như khuất tịch.

 

Thế nên, hiện thể thượng quan này không mang tính cách siêu h́nh như hiện thể đại quan, tính cách tâm lư như hiện thể tương quan, tính cách tâm linh như hiện thể chủ quan, và tính cách nhân bản như hiện thể khách quan, mà là tính cách linh thiêng của lương tâm nơi loài tạo vật là người và làm người.

 

Đúng vậy,

 

Hiện thể thượng quan mới là hiện thể tối cao và khẩn thiết nhất mà con người phải đạt được và phải trở nên, th́ con người

của họ mới thành toàn và cuộc đời của họ mới hạnh phúc. Bằng không, cuộc đời của họ càng vô phúc, và con người của

họ càng bất toàn, một khi, nhờ ư thức nơi hiện thể chủ quan, họ đă biết được họ là ai và đang hiện hữu trên đời này để

làm ǵ!Tuy nhiên,

 

Trở nên một hiện thể thượng quan là như thế nào? Hay, là một năng thể thể hiện hiện thể thượng quan là ǵ? Nghĩa là, thế nào để làm một con người có lương tâm? Nếu không phải, năng thể làm người này của con người phải làm sao trung thực phản ảnh lương tâm chân chính mà hiện thân của nó là những nhân đức luân lư căn bản để làm người, như khôn ngoan, công chính, tự chủ và khắc phục.

 

Khôn ngoan là luân đức đệ nhất trong bốn luân đức hoàn hảo hoá tâm trí của con người, nhờ đó, con người có thể chọn lựa (tâm) một cách chính xác theo phán đoán (trí) của ḿnh như lương tâm chính trực đ̣i hỏi.

 

Công chính là luân đức đệ nhị, hoàn hảo hoá nhân phẩm của con người, nhờ đó, con người có thể tự trọng ḿnh và tôn

trọng người một cách công bằng và chính đáng, xứng với nhân vị và chức phận của ḿnh.

 

Tự chủ là luân đức đệ tam hoàn hảo hoá bản chất của con người, nhờ đó, con người có thể điều chế một cách hợp t́nh, hợp lư những thái qúa của bản năng hạ đẳng đ̣i hỏi, cũng như những ước vọng tham lam của ḷng muốn thượng đẳng.

 

Khắc phục là luân đức đệ tứ hoàn hảo hoá tinh thần của con người, nhờ đó, con người có thể can đảm thực hiện được

những trách vụ hay những nghĩa cử cần thiết, dù có v́ thế mà phải chịu đựng mọi hậu qủa tai hại cho chính bản thân ḿnh.

Phải,

 

Theo lư thuyết, năng thể làm người thể hiện hiện thể thượng quan chính là trở nên như những ǵ được thiên định nơi ḿnh.

 

Thế nhưng, không ai có thể biết rơ được ư định nhiệm mầu của Thượng Đế nơi ḿnh, ngoài tiếng lương tâm bên trong và những nguyên tắc luân lư phổ quát bên ngoài.

 

Do đó,

 

Trên thực hành, nó không c̣n ǵ khác hơn là trở nên một con người tâm linh sống theo lương tâm thiên phú của ḿnh, để có thể xứng đáng làm người, một con người luân lư hoàn toàn khôn ngoan, công chính, tự chủ và khắc phục.

 

VỀ LUÂN ĐỨC KHÔN NGOAN.

 

Không phải hay sao, một con người càng lớn th́ càng khôn ngoan hơn, để rồi, càng khôn ngoan lại càng ǵa giặn? Tuổi đời của con người, sau khi đă đến tuổi có thể tự lập theo tâm lư, tức tuổi 21, nhất là, sau khi đă đạt tới tuổi kể như không c̣n phát triển thêm ǵ về thể lư nữa, tức tuổi 25, sẽ bắt đầu phát triển đến tầm vóc con người luân lư của ḿnh, đó là tầm vóc con người khôn ngoan của họ.

 

Thế nhưng, khôn ngoan không phải chỉ ở tại hiểu biết nhiều, phán đoán đúng, phân xử tài, đối xử khéo.

 

Bởi v́,

 

Không phải mọi con người thông thái, như các khoa học gia hay các nhà học gỉa, đều là những con người công chính;

 

Không phải tất cả mọi con người biết t́m ra căn nguyên mọi sự như các triết gia, hay biết hết các nguyên tắc hành động theo lẽ phải như các nhà luân lư, đều là những vị thánh hiền;

 

Không phải mọi con người biết điều binh, khiển tướng, trị dân, như các chính trị gia hay các nhà lănh đạo đại tài, đều là những thần tượng đáng mọi người tôn kính;

 

Không phải mọi con người biết khéo léo xử thế để được ḷng người ta, và lôi kéo người ta đến với ḿnh, như các thương

gia hay tâm lư gia, đều là những con người khôn ngoan mô phạm, đáng noi gương bắt chước.

 

Phải, một con người, dù học hành ngu dốt, dù sai lạc lầm lỡ, dù tài ba tầm thường, dù vụng về giao tế đi nữa, vẫn có thể là một con người tốt lành nhờ luân đức khôn ngoan của họ.

 

Thật vậy,

 

KHÔN NGOAN KHÔNG PHẢI CHỈ LÀ KHẢ NĂNG BIẾT PHÂN BIỆT (PHÁN ĐOÁN) LÀNH VỚI DỮ, MÀ CHÍNH LÀ TÀI NĂNG ĐỂ CHẤP NHẬN (CHỌN LỰA) SỰ LÀNH VÀ BỎ SỰ DỮ.

 

Thế mà, sự lành và sự dữ lại không phải do trí khôn của con người có thể tự nghĩ ra, mà là do chính lương tâm thiên phú soi sáng cho con người. Phần con người, nhờ đó, tùy theo mỗi trường hợp, có thể nhận ra lành dữ để chấp nhận hoặc xa lánh một cách xứng đáng theo thân phận làm người của ḿnh.

 

Trên thực tế, theo thường t́nh, một con người khôn ngoan là một con người biết dùng đường lối khéo léo để đạt được tối đa tất cả mọi lợi ích cho ḿnh. Thế nhưng, một con người thật khôn ngoan lại là một con người nhiều khi không cần t́m tư lợi cho ḿnh và đặt nặng ích lợi của ḿnh hơn là theo đuổi để thực hiện trọn vẹn nguyên tắc luân lư bất hủ sau đây:

 

YÊU THA NHÂN NHƯ CHÍNH BẢN THÂN.

 

Bằng cách:

 

Về phần tiêu cực,

 

Không làm cho ai những ǵ mà ḿnh không muốn họ làm cho ḿnh (Đức Khổng Tử);

 

Và,

 

Về phần tích cực,

 

Làm cho người những ǵ ḿnh muốn người làm cho ḿnh (Chúa Giêsu).

 

VỀ LUÂN ĐỨC CÔNG CHÍNH

 

Trên căn bản làm người theo nguyên tắc luân lư trên, có thể nói rằng, đă là một con người khôn ngoan phải là một con người

công chính, tự chủ và khắc phục; hoặc, ngược lại, đă là một con người công chính, một con người tự chủ, một con người khắc phục, phải là một con người khôn ngoan.

 

 Nếu so sánh mối liên hệ của bốn luân đức này với nhau nơi nguyên tắc làm người đó, khôn ngoan sẽ đóng vai như một bộ óc, công chính như một con tim, tự chủ như một buồng phổ và khắc phục như một lá gan trong thân thể con người. Hay, so sánh trực tiếp hơn, công chính là bản chất của khôn ngoan, tự chủ và khắc phục là hoa trái của cả công chính lẫn khôn ngoan.

 

Công chính là con tim của nguyên tắc làm người, là bản chất của khôn ngoan.

 

Ở chỗ, con người công chính luôn luôn coi trọng tha nhân cũng như bản thân ḿnh. Không bao giờ dùng thủ đoạn gian dối, thậm chí, bất chấp thủ đoạn để mưu cầu tư lợi của ḿnh và cho ḿnh, bất chấp thiệt hại hay bất lợi cho tha nhân.

 

Nhất là, không bao giờ dám coi thường và hạ nhục tha nhân đến nỗi dùng họ như bàn đạp, như phương tiện để vinh thân ph́ da của ḿnh.

 

Kể cả thái độ sống chết mặc bay để ung dung hưởng thụ những ǵ ḿnh có, như giầu sang, quyền thế v.v. cũng kể như không bao giờ tự ư thấy xẩy ra nơi con người khôn ngoan sống công chính này.

 

VỀ LUÂN ĐỨC TỰ CHỦ VÀ KHẮC PHỤC

 

Tự chủ là buồng phổi của nguyên tắc làm người, là hoa trái thứ nhất của khôn ngoan và công chính.

 

Ở chỗ, có tôn trọng nhau mới phải làm chủ ḿnh. Bằng không, v́ đ̣i hỏi quá độ của bản năng mù quáng và ước vọng qúa sức của ḷng tham vô đáy, không được kiềm chế và điều chỉnh cho chính đáng, một lúc nào đó, không sớm th́ muộn, không nặng th́ nhẹ, không nhiều th́ ít, con người sẽ không thể tránh khỏi lấn át tha nhân hay lạm dụng tha nhân một cách bất chính, bất công, bất nhân, bất nghiă v.v.

 

Điển h́nh là những trường hợp hiếp nhau về nhục dục (gọi là hiếp dâm) hoặc về thế lực (gọi là hiếp đáp hay hà hiếp).

 

Trái lại, nhờ tự chủ, con người sẽ tăng nội lực gấp bội để có thể đủ sức đương đầu với những cơn thử thách kinh hoàng

gây ra bởi cuộc sống làm người sau này.

 

Khắc phục là lá gan của nguyên tắc làm người, là hoa trái thứ hai của khôn ngoan và công chính.

 

Ở chỗ, có tôn trọng nhau mới phải khắc phục. Mặc dầu, nhờ tự chủ, con người tự nhiên vị kỷ vốn xu hướng t́m ḿnh đă

bị hoàn toàn khống chế, nó vẫn c̣n những tảng đá ích kỷ ngấm ngầm nằm sâu dưới ḷng biển cả yêu thương trên mặt, mà,

chỉ khi nào bị con tầu tha nhân đụng trúng, mới thấy sức công phá dữ dội chưa từng có của nó, nhiều khi không c̣n có thể hàn gắn được nữa.

 

Bởi thế, chỉ khi nào con người phá vỡ được tính ích kỷ của ḿnh, bung ra khỏi con người nhỏ mọn, hạn hẹp, chấp nhất của ḿnh, họ mới thực sự yêu thương nhau như bản thân, mới thực hiện hoàn toàn nguyên tắc làm người, mới đạt được tầm vóc viên măn của ḿnh, mới trở thành bất diệt, cao cả, vô biên, bất tận, như chính tính chất của t́nh yêu ở trong họ.

 

Tóm lại,

 

Năng thể của con người, cái con người làm để hiện hữu, theo như cái con người có (hữu thể) và cái con người là (hiện thể), chỉ khi nào thực sự phản ảnh trung thực hiện thể thượng quan là ư định của Thượng Đế, Đấng tạo dựng nên ḿnh, muốn

nơi ḿnh, mới có thể trở nên hoàn hảo.

 

Tuy nhiên,

 

Hiện thể thượng quan này như thế nào đối với con người, nếu không phải là thực tại, là đối tượng chân, thiện, mỹ tối cao mà

con người phải đạt tới, dưới ánh sáng hướng dẫn không thể lầm lạc của lương tâm thuần túy đă được Ngài phú bẩm cho

thân phận là người của họ và sai đến với tâm linh làm người của họ khi họ biết sử dụng lư trí hay sao?

 

Bởi thế,

 

Khi con người năng thể thực hiện thân phận làm người của ḿnh một cách khôn ngoan là họ đă phản ảnh sự chân thật, đối tượng cho lư trí của con người có nhân tính.

 

Khi con người năng thể thực hiện thân phận làm người một cách công chính là họ đă phản ảnh sự thiện hảo, đối tượng cho ḷng muốn của con người có nhân phẩm.

 

Khi con người năng thể thực hiện thân phận làm người một cách tự chủ và khắc phục là họ đă phản ảnh sự mỹ diê<139>u, đối tượng cho tinh thần của con người có nhân cách.

 

Để rồi,

 

Cũng chính lúc con người năng thể thực hiện bốn luân đức làm người như thế, mà, T́nh Yêu tự bản chất toàn chân, toàn thiện, toàn my<140> mới có thể sống động trong họ và qua họ, nhờ đó, họ sẽ thực nghiệm được nơi bản thân ḿnh cái thực tại:

 

Hạnh Phúc là Viên Măn Yêu Thương!